Đặc trưng của bảy
Tôn giáo hay Đạo
giáo
lớn nhất hoàn cầu

Bảy tôn/đạo giáo lớn nhất thế
giới:
Kitô giáo, Đạo Hồi, Đạo Ấn,
Đạo Phật,
Đạo Sikh, Đạo Do thái và Đạo Vật
Linh
Sơ lược lịch sử
Triết gia Aristotle (384-322 TCN) cho rằng Khoa học Thần học đă đề cập đến
các "tách
rời" sự hiện hữu của vật chất và "động cơ bất
động" làm cho việc di chuyển trở nên khả
thi. Khoa học về Thần linh hay Siêu h́nh học cũng t́m hiểu nguyên tắc và nguyên nhân đầu tiên của
những vật
chất trên thế gian này. Tư
tưởng của Aristotle tồn tại
cho đến cuối thời Trung cổ làm cơ sở cho Triết lư Kitô giáo.
Chủ
nghĩa Duy lư của thế kỷ 17 tuyên bố quyền tự
trị của lư trí, so với đức tin, để t́m
kiếm chân lư. Descartes (1596-1650) muốn luôn luôn ḥa giải lợi
ích của khoa học với tôn giáo. Bằng cách viết
"Thiên Chúa hay thiên nhiên", Spinoza (1632-1677) xác định
thần tính với "toàn thể" của thế giới
thực; trái ngược với thuyết Thần cũng
giống người (anthropomorphism) Tôn giáo Truyền thống
tạo ra với Thiên Chúa một Đấng Tạo Hóa, khác
với thế gian, hành động theo một mục tiêu.
Ông bảo vệ sự độc lập của các quyền
lực tôn giáo và chính trị và tự do triết học.
Chủ
nghĩa vô thần triết học của "Thế kỷ
của Ánh sáng" (Helvetius, Holbach, Diderot, La Mettrie ...) đă
gây ra sự thù hận khắc nghiệt đối với
các tôn giáo, các giáo điều và những mạc khải của
họ. Nó đề xuất một sự giải thích vật
chất của thế giới. Các tôn giáo được
coi là bị lừa đảo v́ lợi lộc của các lợi
ích xă hội và chính trị.
Kant (1724-1804)
trong "Phê phán Lư trí Thuần túy" đă làm vô ích việc
t́m kiếm bằng chứng Hữu thể luận về sự
tồn tại của Thiên Chúa. Đối với tất cả
các câu hỏi về Siêu h́nh học, Đức Chúa Trời
không c̣n là chủ đề của tri thức nữa,
nhưng lại thuộc về niềm tin và Người là
một ư tưởng siêu việt của lư trí.
Trong
thế kỷ 19, Feuerbach (1804-1872), Marx (1818-1883), Nietzsche
(1844-1900) đă chứng kiến tôn giáo là một biểu hiện
của sự dốt nát và nhẹ dạ, một ảo
giác. Đức Chúa Trời chỉ là một biểu hiện
bên ngoài của những khát vọng của con người
lớn trên con người. Đối với Marx, sự thất
vọng về xă hội là nguyên nhân của sự xa lánh tôn
giáo bằng cách dự đoán lư tưởng con người
trong thế giới tưởng tượng. Tôn giáo có tác dụng
nhẹ nhàng và gây mê ("bùa mê, thuốc phiện của
người dân") so với thực tế đau khổ.
Do đó, tôn giáo là một giải pháp huyền ảo chứ
không phải là một giải pháp thực sự cho những
khó khăn và những đau khổ của cuộc sống.
Nietzsche áp đặt những ảnh hưởng độc
hại và bệnh hoạn của xă hội tôn giáo lên sự
ám ảnh của tội lỗi.
Vào
đầu thế kỷ 20, Freud (1856-1939) tuyên bố rằng
tôn giáo là một chứng thần-kinh-loạn ám-ảnh của
con người. Trong đó Thiên Chúa là h́nh ảnh tinh thần
của người cha cung cấp sự bảo vệ mà
con người tự đặt ḿnh vào. Để tách khỏi
Đức Chúa Trời ("Vụ giết người của
cha") là một trong những giai đoạn khó cản
được sự phát triển của con người.
Phương
pháp tiếp cận xă hội học của tôn giáo cho rằng
cái này không chỉ bao gồm sự diễn tả vô lư của
lương tâm hoặc là một giai đoạn ban sơ của
sự phát triển con người mà là một đặc
điểm thiết yếu của xă hội.
Đối với
Emile Durkheim (1858-1917), tôn giáo là một biểu hiện của
xă hội trước đây đối với mỗi
người và là một diễn tả của các tiêu chuẩn
và giá trị của nó.
Đối với
Max Weber (1864-1920), các hoạt động tôn giáo được
h́nh thành dựa trên sự thu hút, phẩm chất phi thường
của một người quan trọng được
Thiên Chúa gửi đến hoặc điều đó đă
trở thành một tấm gương cho nhiều người.
Tất cả những
phân tích này thực thú vị và đưa ra những ánh sáng
khác nhau từ tôn giáo. Tuy nhiên, chúng không thể tránh
được việc giảm bớt sự phức tạp
của cảm giác tôn giáo, như tất cả những ǵ
liên quan đến xă hội học và tâm lư học.

Định nghĩa tôn giáo
Tôn giáo là tập
hợp của niềm tin, cảm xúc, giáo điều và thực
hành xác định mối tương quan giữa con người
với Đấng Tạo Hóa hay thần linh. Một tôn giáo
được xác định bởi một cộng đồng
các tín hữu những yếu tố cụ thể như:
niềm tin, sách thánh, lễ nghi, thờ phượng, bí
tích, luân lư, và luật lệ. Phần lớn tôn giáo đă
phát triển từ một mặc khải dựa trên lịch
sử của một quốc gia, một tiên tri hoặc một
người khôn ngoan đă dạy những lư tưởng
cho cuộc sống.
Một tôn giáo cần có ba đặc điểm:
• Niềm
tin và thực hành
• Cảm giác tín
ngưỡng. Thí dụ: đức
tin
• Thống nhất trong một cộng đồng của
những người cùng chung đức tin. Thí dụ: Giáo hội. Đó là sự
khác biệt giữa tôn giáo và ma thuật.
Nghiên cứu các tôn
giáo hiện
hành hoặc đă biến mất cho thấy tính phổ quát và sự
đa dạng rất lớn trong các giáo lư, học thuyết và thực hành lễ
nghi.
Người
ta thường phân
biệt các tôn giáo được gọi là nguyên thủy hoặc
linh vật, các tôn giáo phương Đông (Ấn giáo, Phật giáo, Thần
giáo [Shintoism], Khổng giáo, Lăo giáo, ...) và các tôn giáo thờ đơn thần bắt nguồn từ Kinh Thánh (Do Thái giáo, Kitô giáo, Hồi giáo). Chính Kitô giáo đă sinh ra một số tôn giáo hoặc Hội thánh (Công giáo, Chính Thống, Thệ Phản,
Tin Lành,...).

Bảy tôn giáo/đạo giáo lớn nhất
hoàn cầu
Kitô Giáo
Huy hiệu
|
. Cây Thánh Giá
|
Đấng sáng lập
|
. Chúa Giêsu Kitô
|
Năm thành lập
|
. 30 Sau công nguyên
|
Nơi thành lập
|
. Do thái
|
Sách thánh
|
. Cựu Ước,
Tân Ước
|
Nơi thờ phượng
|
. Nhà thờ
|
Thành phần chính
|
. Công giáo, Thệ phản,
Chính thống
|
Tín hữu
|
. 2 Tỷ Kitô hữu
|
Niềm tin căn bản
|
. Tôn thờ chỉ một
Thiên Chúa
|
|
. Chúa Giêsu Kitô là Con
Thiên Chúa
|
|
. Chúa Giêsu xuống thế
để cứu rỗi nhân loại
|
|
. Chúa Giêsu đă chết
và sống lại
|
|
. Dựa trên Mười
điều răn
|

(Chúa Giêsu chịu chết trên)
Cây thánh giá:
dấu hiệu Kitô giáo
Đạo Hồi
Huy hiệu
|
. Trăng liềm
& Ngôi sao
|
Đấng sáng lập
|
. Mohammad
|
Năm thành lập
|
. 620 Sau công nguyên
|
Nơi thành lập
|
. Bán đảo Arabian
|
Sách thánh
|
. Quran, Hadith
|
Nơi thờ phượng
|
. Đền thờ
|
Thành phần chính
|
. Sunni, Shia
|
Tín hữu
|
. 1.3 Tỷ người
Hồi giáo
|
Niềm tin căn bản
|
. Thờ đơn thần
|
|
. Thờ đấng
Allah. Mohammad chỉ là sứ giả
|
|
. 5 Cột trụ:
|
|
đức tin, cầu
nguyện, bố thí, ăn chay, hành hương
|

Trăng liềm & Ngôi sao:
Dấu hiệu Đạo Hồi
Đạo Do Thái
Huy hiệu
|
. Sao 6 cạnh
|
Đấng sáng lập
|
. Môsê
|
Năm thành lập
|
. 3000 Trước công
nguyên
|
Nơi thành lập
|
. Do thái
|
Sách thánh
|
. Torah, Talmud
|
Nơi thờ phượng
|
. Hội đường
|
Thành phần chính
|
. Chính thống, Bảo
thủ, Cải cách
|
Tín hữu
|
. 14 Triệu người
Do thái
|
Niềm tin căn bản
|
. Thờ đơn thần:
Thiên Chúa
|
|
. Do thái là dân Chúa chọn,
phải tuân giữ luật Chúa
|
|
. Jerusalem
và Israel
là đất thánh
|

Sao sáu cạnh:
Dấu hiệu đạo Do thái
Đạo Ấn
Huy hiệu
|
. Văn tự
|
Đấng sáng lập
|
. Những tư tế
xa xưa người Ấn độ
|
Năm thành lập
|
. 5000-3000 trước
công nguyên
|
Nơi thành lập
|
. Ấn độ
|
Sách thánh
|
. Kinh Vedas
|
Nơi thờ phượng
|
. Đền thờ
|
Thành phần chính
|
. Nhiều trường
học và truyền thống
|
Tín hữu
|
. 900 Triệu người
Ấn độ
|
Niềm tin căn bản
|
. Thờ nhiều thần
|
|
. Tin vào Tái sinh
|
|
. Tin vào Luân hồi
|
|
. Mục tiêu cuối
cùng: hiệp nhất với Brahman là
|
|
chúa và là sự thật
|

Văn tự:
Dấu hiệu Đạo Ấn
Đạo Phật
Huy hiệu
|
. Ṿng luân hồi
|
Đấng sáng lập
|
. Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni
|
Năm thành lập
|
. 500 Trước công
nguyên
|
Nơi thành lập
|
. Bắc Ấn độ
|
Sách thánh
|
. Tripitaka
|
Nơi thờ phượng
|
. Tu viện
|
Thành phần chính
|
. Đại thừa,
Nguyên thừa
|
Tín hữu
|
. 360 Triệu Phật
tử
|
Niềm tin căn bản
|
. Thờ nhiều thần
|
|
. Cuộc sống là
đau khổ, gây ra bởi những điều ước
|
|
muốn và ngu dốt
|
|
. Tin vào tái sinh và nghiệp
chướng
|
|
. Pháp: con đường
của sự công chính và
|
|
cuộc sống của
một người theo các quy tắc ứng xử
|
|
. 8 Đường
để giải thoát tiến đến Niết bàn
|
|
(Trong đó không có khổ đau, dục vọng, cũng
không
|
|
có ư thức về bản thân. Chủ
thể được giải thoát
|
|
khỏi nghiệp quả và chu kỳ
chết chóc và tái sanh. Nó
|
|
tượng trưng
cho mục tiêu cuối cùng của Phật giáo)
|

Ṿng Luân hồi:
Dấu hiệu Đạo Phật
Đạo Sikh
Huy hiệu
|
|
Đấng sáng lập
|
. Guru Nanak
|
Năm thành lập
|
. 1500 sau công nguyên
|
Nơi thành lập
|
. Ấn độ, Pakistan
|
Sách thánh
|
. Adi Granth
|
Nơi thờ phượng
|
. Đền thờ
|
Thành phần chính
|
. n/a
|
Tín hữu
|
. 23 triệu Người
Sikhs
|
Niềm tin căn bản
|
. Thờ đơn thần
|
|
. Trộn lẫn của
Hồi giáo và Ấn giáo
|
|
. Tin vào Tái sinh và nghiệp
chướng
|
|
. Kesh: không cắt tóc
và bộ râu, như được ban cho
|
|
bởi Đức Chúa Trời,
để duy tŕ ư thức. Và một cái
|
|
khăn quàng cổ,
cái vương miện của tâm linh.
|
|
. Kangha: một cái
lược bằng gỗ để chải tóc như một
|
|
biểu tượng của sự
sạch sẽ.
|
|
. Katchera: đồ
lót làm bằng vải đặc biệt như là một
|
|
lời nhắc nhở của cam
kết về tinh khiết.
|
|
. Kara: một ṿng tṛn
thép, đeo trên cổ tay, biểu
|
|
hiện dính chặt với
chân lư và tự do từ mọi vướng mắc.
|
|
. Kirpan: thanh
gươm, mà Khalsa cam kết bảo vệ
|
|
chính đáng đường
tốt của Chân lư.
|

Dấu hiệu Đạo Sikh
Đạo Vật
Linh
• Là đạo giáo bộ tộc của người
dân thiểu số trên toàn thế giới.
|
|
• Ngày nay số người ủng hộ ít nhất là
100 triệu.
|
|
• Những người theo đạo Vật Linh tin rằng
một số vật thể vô tri
|
vô giác có tinh thần hoặc linh
hồn
|
|
- Tinh thần sống trong đá, sông, núi, và thiên thể
của nước
|
|
- Mỗi bộ lạc có những đặc
trưng riêng
|
|
• Hầu hết được t́m thấy ở vùng Sahara
Phi Châu
|

(Thiên nhiên sống hài ḥa và có linh hồn)
Minh họa Đạo Vật Linh
Tương đồng và dị biệt
Xuyên qua lịch sử về việc diễn giải và
so sánh các tôn giáo lớn trên thế giới, chúng ta có thể
phân
tích để đưa ra những điểm tương
đồng và dị biệt:
• Được
gọi là tôn giáo th́ phải có
Đấng sáng tạo và quan pḥng vũ trụ bao gồm sức mạnh siêu nhiên hoặc quyền lực
vô
năng để điều hành và duy tŕ muôn
loài, muôn vật.
• Tôn giáo thiết lập niềm tin và giá trị xác định
cách phụng
thờ thần
linh hay các lực lượng thần thánh.
• Tất cả 7 tôn giáo / đạo giáo lớn trên thế giới được xác định
bởi 3 loại:
- Đơn
thần: niềm tin vào một vị thần
- Đa thần:
niềm tin vào nhiều thần
- Linh
vật: niềm tin vào các thế lực thần linh trong thiên nhiên
Tuy
nhiên, điều xảy ra trong thế
giới ngày
nay đầy hỗn loạn và
hoang mang rằng "tôn giáo" là một thuật ngữ bị
từ chối bởi chính tín
đồ của
những tôn
giáo này. Một số
phật
tử cho rằng Phật
giáo "không phải là một tôn giáo mà là một
nền triết học". Một số người Hồi giáo nói: "Hồi giáo không phải
là tôn giáo. Đó là một lối
sống". Tương tự như vậy, "đa số
người Ấn
độ không nhận họ
thuộc về tôn giáo đó, v́ đó là cái tên được
đặt bởi những người ngoại đạo. C̣n
học giả Herbert Bowman cho
biết nhiều người phàn nàn rằng: "đă bao lần
chuyển đổi hoặc tuân thủ các niềm tin khác nhau như Sikh giáo và Do thái giáo: 'Đây không phải là tôn
giáo, nhưng là phương cách sống'."
Kết luận
Trong bảy tôn giáo
vừa kể th́ chỉ có Kitô giáo được xem là một tôn giáo thực sự v́
Đấng sáng lập, Chúa Giêsu Kitô, đến từ trời. Một trong những
điều kiện cấu thành tôn giáo là
phải có lời giải thích thỏa đáng cội
nguồn của
loài người, sống trên đời để làm ǵ và
khi chết sẽ đi về đâu. Nếu không giải
thích thỏa đáng được ba câu hỏi trên; thiết nghĩ tôn
giáo đó chỉ nên gọi là đạo giáo. Do đó, chúng ta
có sáu
(6) đạo giáo mà đấng sáng lập chỉ là người thường
như tín
hữu của họ. Đạo
giáo không giải thích được nguồn gốc uyên
nguyên của vạn
vật từ đâu mà
ra,.... Tuy nhiên, "đạo" là đường! Đường hướng
dẫn người tín hữu
sống cuộc đời hạnh phúc, ư nghĩa,
và đầy
đủ. Nếu
được như vậy, thiết nghĩ đạo
giáo đă làm tṛn sứ mạng của nó.


V072817